Thứ Ba, 29 tháng 10, 2019

dan choi tan phu hình sex làm tình truyen sex dong gioi


thai ha books Khảo luận về nghề "làm đĩ", nhà nghiên cứu Đỗ Anh Vũ cho rằng có 23 cách gọi khác nhau, anh còn nhận ra nhiều chi tiết thú vị trong văn hóa, đời sống tầng lớp về nghề này

- Anh nghĩ sách phê bình của mình đáp ứng điều gì ở số đông nên mới được đón nhận?

-Tôi nghĩ mình đã cần lao đích thực, khoa học và nghiêm túc, sách lại có điểm độc đáo. Một trong những chức năng của văn chương là để giải trí, để người đọc cảm thấy vui vẻ, sảng khoái.

Cuốn sách của tôi bên cạnh chức năng vui, nhẹ nhõm, nó cung cấp thêm nhiều dữ liệu tri thức thông báo về phong tục, văn hóa của người Việt. Tôi có nhiều phát hiện mới của riêng mình. có nhẽ, bạn đọc cảm thấy những điều đó có lý, thì họ mới ủng hộ mình.

vì sao người ta gọi anh là nhà tục học? Anh cảm thấy thế nào khi bị gắn với biệt danh đó?

- Vì người ta thấy tôi hay nghiên cứu về những thứ tục. Người ta thấy một loạt bài viết kiểu đó ra đời: Sex trong tỳ bà truyện, Sex trong thơ Nguyễn Trãi, luận về bưởi, chuối… Đó là cách mọi người dán nhãn tôi, phân biệt tôi với người khác.

Cách gọi ấy cũng đúng thôi. Vì tôi đã nghiên cứu các vấn đề ấy nhiều hơn người khác, và vẫn còn những bài chưa công bố. Ai gọi tôi như vậy là họ đang nói một cách vui vẻ, không có gì hạ thấp tôi.

- Về tiếng nói giao tế, nhiều người nhận định người Hà Nội xưa ăn nói nhẹ nhàng, cao nhã, nhưng nay đã trở nên tục tĩu, xô bồ. Anh nghĩ sao về hiện trạng đó?

- Ở đâu cũng có người này kẻ nọ. Người Hà Nội gốc vẫn thanh nhã, ăn nói nhẹ nhõm, đi lại ung dung, từ tốn, tình cảm. Hà Nội ngày nay là nơi có sức hút, là tụ hợp của nhiều cá nhân chủ nghĩa ở các tỉnh thành. Thời 4.0 lại phát triển chóng mặt, người trẻ có nhiều cách nói bậy, nói tục xô bồ hơn, cách viết tắt để chửi tục cực kỳ nhiều. Đó là hiện thực của từng lớp.

Nhưng nhiều người vẫn xác lập được sự phân biệt, lúc nào cần phải nói gì, nói ở đâu cho phù hợp.

tiếng nói là sinh thể vận động theo quy luật riêng của nó.

- Vậy tình trạng nói tục chửi bậy hiện thời có đáng báo động, cần những biện pháp ngăn ngừa?

- Chúng ta không thể kiểm soát được việc dùng tiếng nói của thanh niên và mọi người. Ai cũng có account mạng tầng lớp, tự do nói điều mình thích, làm gì có chế tài nào kiểm soát được.

Nhưng những giá trị về mặt đạo đức, văn hóa vẫn là điều vững bền, nó nằm ẩn sâu đâu đó dưới cái nền của đời sống chúng ta, nó có từ muôn đời nay rồi. Rất nhiều người có lối sống lành mạnh hăng hái. Tôi nghĩ nó sẽ là những thế lực giằng co nhau. Chúng ta vẫn phải tin vào những điều tốt đẹp.

Từng người đến thời đoạn khác nhau trong thế cục có nhận thức khác nhau. Ta không nên quá lo âu về việc tiếng nói sẽ đi về đâu, tiếng nói có quy luật của riêng nó.

Những từ tục nó đã ra đời, tồn tại, chắc chắn nó có chỗ dùng, quan yếu là phải dùng trong môi trường hợp lý thì mới phát huy được giá trị của nó. Nó là trầm tích văn hóa của người Việt.

anh khao than 100 Vẻ đẹp của yêu tinh là một cuốn sách nghiên cứu thú nhận khi đi tìm vẻ đẹp của những chủ đề được cho là tục tĩu, tục tằn, xấu xí.

Với cách đặt vấn đề táo bạo, Đỗ Anh Vũ đã khảo luận, nghiên cứu văn chương, văn hóa, tiếng nói một cách nghiêm chỉnh, khoa học. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ san sẻ về quá trình thực hành cuốn sách độc đáo này, cũng như những ý kiến về cách dùng tiếng nói trong lời ăn ngôn ngữ hàng ngày.

Nghiên cứu về những đề tài người khác tránh né

Sách của anh dù sao cũng bàn tới những chủ đề ít người nói, đôi khi là những thứ bị cho là mất vệ sinh, mẫn cảm trên thân thể người. Anh có bị phản ứng gì khi bàn về những chủ đề này?

- Tôi chưa bị phản ứng gì. Những từ tục, chúng ta bảo nó tục nhưng nó có thật, nó tồn tại phổ biến trong đời sống dân gian, dân gian vẫn nói, đến thời điểm nào đó người ta mới cho là nó “tục”.

Khi các từ Hán Việt vào, sắc thái tục - thanh mới phân ra. Trước đó, các từ chỉ bộ phận người vẫn là những từ người Việt mình dùng thẳng tắp như cơm ăn nước uống. Đó là những từ cực kỳ căn bản. Chính những từ ấy là yếu tố trước hết phân định ngôn ngữ này với tiếng nói khác, để xác lập đây có phải là ngôn ngữ độc lập hay không.

Các nhà tiếng nói học, khi phân định một ngôn ngữ có độc lập hay không, ngoài ngữ âm còn căn cứ vào kho từ vựng của nó nữa.

- Anh đánh giá như nào về việc phân chia các từ mà ông cha bao đời vẫn dùng để chỉ bộ phận thân người là từ tục?

- tiếng nói có một quá trình phát triển, đến một giai đoạn nào đấy, sự phân biệt như vậy rất cấp thiết. Chính con người cung cấp sắc thái cho ngôn ngữ, tạo nên những khu vực giao tế khác nhau.

Nếu nhìn theo con mắt đương đại, những từ chỉ thẳng bộ phận cơ thể người đúng là tục. Nhưng khi thực hành những bài nghiên cứu như tôi công bố, tôi muốn đi sâu vào văn hóa.

Đằng sau các từ đó nó gắn với ngữ nghĩa, biểu trưng, phong tục tập quán, lề thói, suy nghĩ người Việt, chứ tôi không ủng hộ phải dùng nó, không phải cứ ra đường văng bừa các từ đó cho sướng mồm.

Những từ đó ra đời, tồn tại lâu, nó phải có chỗ để dùng, nếu không nó sẽ chết. Khi bất bình, ta phải dùng lời chửi chả hạn, khi đó phải văng từ tục. Nhưng khi đứng trước giảng đường, trong cuộc họp, văn bản viết… ta không dùng từ suồng sã, tục tĩu như thế được.

Tôi tin mình vẫn bàn những câu chuyện nghiêm túc về văn hóa, văn chương.

tìm gái qua đêm o quang ngai Từ khi cuốn sách ra mắt, có khá nhiều người thắc mắc, và lý giải cho tên thể loại. “Hỗn luận” như cước chú cho loại thể. Hỗn ở đây là sự hẩu lốn, có bài ngắn, bài dài; có bài thiên về tiếng nói văn chương, bài về tác giả tác phẩm, bài về văn hóa… Nhưng chữ “hỗn” ở đây có phần nghịch dị, không đi theo những lối mòn, hay quá phúc hậu. Vì trong sách có khá nhiều bài chạm vào đề tài hóc búa, mẫn cảm mà nhiều người tránh bàn đến

- vì sao anh chọn khảo luận về những chủ đề như chim, bướm, vòm ngực, yêu tinh, vụ hôn... trong văn chương?

- Đó là chủ đích của tôi. Khi đặt bút tìm hiểu một vấn đề, tôi muốn viết về đề tài độc đáo, mới lạ. Khi đề tài hút mình, thì tôi tin nó cũng hút bạn đọc. Và tôi đã viết những khảo luận về những chủ đề đó.

Tôi còn rất nhiều bài mà đọc tiêu đề tưởng nó sốc, tuy nhiên chưa đưa vào cuốn sách này, đây chỉ là cuốn trước tiên.

- Sốc hơn nữa, là những đề tài như thế nào, thưa anh?

- Tôi vẫn có những tiểu luận mà đề tài gây kích thích. tỉ dụ bài “Cave luận” hay “Luận về kỹ nữ” chả hạn. Tôi khảo về một từng lớp từng lớp đã có từ thời kỳ phong kiến đến giờ, nó đã được cha ông nhìn và đánh giá như thế nào qua bao lăm câu ca dao, thành ngữ, phương ngôn, nó đi vào tác phẩm văn chương như thế nào, trong cuộc sống nó được định danh ra sao?

Nếu coi đó là nghề, thì nó là nghề có nhiều tên gọi nhất của Việt Nam - 23 tên gọi: đĩ, điếm, cave, phò, gái bán hoa, gái làng chơi, bướm đêm, gái gọi, bò lạc... vì sao thế? Điều đó chính là sự thúc của đời sống tiếng nói và văn hóa.

Tôi sẽ còn khảo về sự bài tiết nữa. Nhìn từ góc độ văn hóa, chúng cũng ham thích.

Hoặc, khi khảo về cánh cửa, tôi phát hiện ra nhiều điều ưa trong ngôn ngữ và văn hóa. Trên thân thể con người, một loạt cơ quan đều đặt trong lý tưởng về cánh cửa: Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, âm hộ, miệng cũng là cửa… Cánh cửa đi vào một loạt thành ngữ phương ngôn gắn với văn hóa người việt: Môn đăng hộ đối, Vượt vũ môn, Chửa cửa mả, Lách qua khe cửa hẹp…

Khi đi vào nghệ thuật, cửa còn lung linh ảo huyền hơn nữa: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa, rồi bên vết thương tôi quỳ, vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia” như ca từ của Trịnh Công Sơn.

tại sao cánh cửa đi vào đời sống như vậy? Nó thích thú tới mức tôi vẫn còn muốn tìm thêm tư liệu để hoàn thiện bài viết của mình hơn.

- Các bài viết trong sách, mỗi bài tuy chỉ bàn đến một đề tài, nhưng dùng rất nhiều tư liệu văn học dân gian và các tác phẩm văn chương, văn hóa. Quá trình khảo cứu của anh diễn ra như thế nào?

- đầu tiên tôi ngồi thiền. Trời cho tôi trí tưởng tốt, tôi có thể nhớ cả nghìn bài thơ, bài hát mà không cần xem tài liệu. Khi đã có ý tưởng viết về vấn đề gì, tôi ngồi nhớ lại những gì mình đã đọc, những câu hay nhất ấn tượng nhất mà mình đã đọc về đề tài này. Nếu cảm thấy dữ liệu chưa đủ thì tra Google.

Sau đó tôi sẽ phân loại tư liệu, chia thành các khu vực khác nhau, từng ấy tư liệu sẽ nói lên những vấn đề gì. Sau đó tôi tìm cấu trúc bài viết, cân nhắc mở, kết như nào làm sao mở phải ấn tượng, kết phải có dư ba. Sau đó mình tìm cách liên kết các khu vực tư liệu lại thành bài viết.

Nếu là các bài ngắn thì tôi thường mất 3 tiếng làm tư liệu và viết. Nhiều bài khảo luận về yêu tinh, sinh thực khí… nó mang thuộc tính nghiên cứu, mất thời gian.

Để ra cuốn sách này là cực kỳ long đong, bản thảo đã đi qua 10 đơn vị xuất bản. Nhưng không ngờ khi ra mắt thì sách lại được đón nhận. Một cuốn sách phê bình mà được đón nhận như vậy là vui rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét